Có thể giảm bao nhiêu phân bón trong trồng trọt?

6/12/2021 | Lượt đọc: 16310

Quan điểm 'phân nhiều lúa tốt' và 'nhất nước nhì phân' đã dẫn đến sự lãng phí phân bón hàng loạt và gây hệ lụy ô nhiễm môi trường, phát thải khí nhà kính.

+

Áp lực phân bón lên đất và sự lãng phí phân bón

Lịch sử phát triển thế giới đã trải qua nhiều cuộc cách mạng khác nhau và theo đó, đã tạo ra các năng suất lao động mỗi ngày một tốt hơn, cuộc sống của loài người ngày càng văn minh hơn.

Khi phương thức hái lượm, chỉ dựa vào tự nhiên và nước trời không còn đủ để nuôi sống loài người, thế giới đã chuyển mình sang một xu thế ngày càng thâm canh cao hơn, bao gồm cải tạo đất, xây dựng các hệ thống tưới tiêu, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chất kích thích điều hòa sinh trưởng để tạo ra một sinh khối cao hơn, một năng suất lương thực thực phẩm cao hơn nhằm nuôi sống con người.

Áp lực thâm canh trong sản xuất nông nghiệp ngày càng cao. Trong 20 năm qua (2000 - 2020), tổng lượng phân hoá học sử dụng ở nước ta, xét về mặt lý thuyết dao động từ 215 kg dinh dưỡng khoáng quy chuẩn (DDK/ha) đến 415 kg/ha, trung bình khoảng 350 kg DDK/ha/năm.

Nhìn chung, lượng phân bón hóa học ở nước ta dùng đã tương đương với các nước có nền thâm canh rất cao trong khu vực (Hàn Quốc 467 kg/ha, Nhật Bản 403 kg/ha, Trung Quốc 390 kg/ha). Tuy nhiên ở nước ta, đặc biệt ở các vùng đất chật người đông như vùng ĐBSH thì mức độ thâm canh gây áp lực phân bón lên đất nông nghiệp ngày càng đáng lo ngại.

Ở nhiều nơi, mức thâm canh lên đến trên 1.000 đơn vị  DDK/ha/năm, hoặc thậm chí cao hơn thế nữa đối với các vùng chuyên canh rau (5 - 10 vụ/năm), cà phê, hồ tiêu hoặc các vùng trồng hoa ven đô thị.

So sánh với giai đoạn 1980 - 2000 cho thấy, áp lực phân bón lên đất nông nghiệp đã tăng lên từ 30 - 50%. Điều này cảnh báo tình trạng phú dưỡng lân, đạm đang ngày càng gia tăng, đặc biệt trong hệ thống thâm canh các cây lúa, cây màu, cây cà phê. Trong khi đó, cần nhấn mạnh rằng xu hướng dùng phân hoá học ở các nước công nghiệp phát triển tuy trước đây cao nhưng trong những năm gần đây đã có xu hướng giảm đi rõ rệt.

Lượng phân bón hóa học và thuốc BVTV sử dụng trong trồng trọt

TT

Vùng

Lượng sử dụng (kg/ha/năm)

N-P-K

Đạm

Lân

Kali

Thuốc BVTV

 

Đồng bằng sông Hồng

958,4

295,1

772,6

252,6

4,2

 

Miền núi Tây Bắc

950,0

242,3

398,6

366,2

7,9

 

Miền núi Đông Bắc

1 154,8

207,4

649,5

184,5

6,4

 

Duyên hải Bắc Trung Bộ

850,0

280,7

538,2

321,8

5,6

 

Duyên hải Nam Trung Bộ

615,0

313,5

501,9

213,4

9,5

 

Tây Nguyên

1 150,0

416,7

815,0

230,0

6,2

 

Đông Nam Bộ

1 325,0

556,2

727,0

385,0

7,4

 

Đồng bằng Sông Cửu Long

447,5

361,6

329,3

181,9

4,8

 

Trung bình

764,18

334,19

591,51

266,93

6,5

Theo thống kê, tổng lượng phân bón sử dụng trong những năm gần đây khoảng 10 triệu tấn/năm, năm 2020 là 10,23 triệu tấn. Phân bón nhập khẩu và sản xuất có hàng ngàn chủng loại với chất lượng hết sức khác nhau.

Tuy vậy, hiệu lực sử dụng phân bón vẫn còn rất thấp, chỉ đạt dưới 50%. Kết quả các nghiên cứu cho thấy, mỗi năm có từ 40 - 60% lượng phân bón đã mất đi trong các hệ thống canh tác, không những gây lãng phí mà còn làm ô nhiễm môi trường, tăng phát thải khí nhà kính.

Mức lãng phí phân bón đã lên đến trên 2 tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Mặt khác, sản xuất nông nghiệp nói chung và trồng trọt nói riêng cũng gây ra phát thải khí nhà kính (KNK). Phát thải KNK từ canh tác lúa nước chiếm tỷ trọng cao nhất do phát thải CH4 từ quá trình phân giải chất hữu cơ trong điều kiện yếm khí.

Báo cáo kết quả kiểm kê KNK (2010) ở Việt Nam cho thấy, chỉ riêng canh tác lúa nước đã phát thải 1,78 triệu tấn CH4, tương đương 37,43 triệu tấn CO2e, chiếm 69,42% tổng lượng phát thải KNK của ngành trồng trọt; và 57,5% tổng lượng KNK phát thải của ngành nông nghiệp, tương đương 26,1% tổng lượng phát thải KNK quốc gia.

Từ khóa: ,